Con trai Thủ tướng cuối cùng VNCH: ‘Tôi tự hào về sự phát triển của Việt Nam’

Con trai Thủ tướng cuối cùng VNCH: ‘Tôi tự hào về sự phát triển của Việt Nam’

Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, thời khắc trưa ngày 30/4/1975 tại Đài Phát thanh Sài Gòn mang một ý nghĩa đặc biệt. Ba nhân vật chủ chốt có mặt lúc đó lại đại diện cho ba miền đất nước: Giáo sư Vũ Văn Mẫu (Thủ tướng chính quyền Sài Gòn, người miền Bắc), Trung tá Bùi Tùng (đại diện quân Giải phóng, người miền Trung) và Đại tướng Dương Văn Minh (Tổng thống chính quyền Sài Gòn, người miền Nam). Sự sắp đặt này như một minh chứng cho khát vọng hòa bình, thống nhất luôn cháy bỏng của dân tộc Việt Nam.

Trong một cuộc trò chuyện đặc biệt, TS Vũ Hoàng Dũng, thứ nam của Giáo sư Vũ Văn Mẫu, đã có những chia sẻ sâu sắc về gia đình, những biến cố lịch sử và niềm tin của ông vào tương lai đất nước.

Ký ức Hà Nội và dòng dõi danh gia vọng tộc

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội cho đến năm 8-9 tuổi, ký ức về thủ đô trong TS Vũ Hoàng Dũng vẫn vẹn nguyên. Ông kể về quê gốc làng Quất Động (Hà Đông xưa, nay thuộc Hà Nội), nơi nổi tiếng với nghề thêu và có các dòng họ lớn như Thái, Vũ, Phạm. Cha ông, cụ Vũ Văn Mẫu, là một người con của quê hương này.

Theo lời kể của các cụ, một vị lữ khách người Tàu sau khi được gia đình khoản đãi đã chỉ cho ba anh em ông nội của TS Dũng cách đặt phong thủy để hậu thế phát đạt, nhưng đổi lại họ sẽ bị đoản thọ. Quả nhiên, công việc làm ăn của gia đình ngày một thuận lợi, nhưng cả ba ông đều mất sớm. Khi ông nội qua đời, cụ Vũ Văn Mẫu mới bước vào tuổi đi học. Nhờ thông minh, học giỏi, ông sớm thông thạo tiếng Pháp.

Bà nội của TS Dũng, cụ Phúc Thái, sau khi làm ăn phát đạt đã chuyển về Hà Nội mở tiệm thêu Phúc Thái tại số 24 phố Hàng Nón. TS Dũng chia sẻ rằng vào ngày sinh nhật của cha mình (25/7), gia đình ông sẽ trở lại địa chỉ này để chụp ảnh kỷ niệm.

Ký ức về Hà Nội của ông còn gắn liền với khu phố cổ, Ô Quan Chưởng và Thái Hà ấp. Mẹ ông là ái nữ của cụ Hoàng Gia Luận (Cử Sen Hồ), em ruột cụ Hoàng Trọng Phu. Ông nội của mẹ ông là cụ Hoàng Cao Khải, và ông ngoại của mẹ là cụ Dương Lâm (anh em với Dương Khuê). Ông bày tỏ sự trân trọng khi Nhà nước vẫn ghi nhận công lao của các bậc tiền nhân qua việc đặt tên phố Dương Khuê, Dương Lâm tại Hà Nội.

Biến cố lịch sử và những lựa chọn của gia đình

Hiệp định Geneve năm 1954 là một dấu mốc lớn gây ra nhiều xáo trộn. Gia đình ông cũng có nhiều người theo Cách mạng. Bác ruột của ông, bà Vũ Thị Đức, đã bị lính Pháp bắn chết tại Quất Động khi bà cố gắng bảo vệ người dân. Sau sự kiện đau thương đó, cô út của ông là bà Vũ Thị Sửu đã quyết tâm đi theo kháng chiến và sau này vẫn tiếp tục hoạt động tại Sài Gòn.

Năm 1954, khi đất nước chia đôi, gia đình ông quyết định vào Nam, trong khi người em ruột của cha ông là Giáo sư Vũ Như Canh (Tiến sĩ Toán – Lý) chọn ở lại miền Bắc và giảng dạy tại nhiều trường đại học ở Hà Nội.

TS Dũng nhớ lại chuyến bay từ sân bay Gia Lâm vào Tân Sơn Nhứt, nơi cha ông, khi đó là giáo sư trường Luật Hà Nội, đã giới thiệu ông với nhà kinh tế Âu Trường Thanh. Sau khi vào Nam, Giáo sư Vũ Văn Mẫu trở thành trưởng khoa trường Luật Sài Gòn. Gia đình vẫn giữ liên lạc với người thân ở miền Bắc qua những lá thư gửi vòng qua Tiệp Khắc, Anh quốc. Chú ruột ông, GS Vũ Như Canh, vẫn nhận được thư và còn giữ được lá thư cha ông viết: “Cháu Vũ Hoàng Dũng rất chăm ngoan”.

Một chính khách độc lập và tinh thần dân tộc

TS Vũ Hoàng Dũng nhận định cha mình là một chính khách độc lập. Dù không tham gia đảng phái nào, ông Ngô Đình Diệm vẫn nể trọng tài năng và mời Giáo sư Vũ Văn Mẫu làm Ngoại trưởng.

Sự kiện chấn động xảy ra vào ngày 20/8/1963, khi chính quyền Ngô Đình Diệm thiết quân luật để đàn áp phong trào Phật giáo. Để phản đối, Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã cạo trọc đầu và từ chức Ngoại trưởng. Hành động này khiến TS Dũng, khi đó mới 17 tuổi và cũng tham gia biểu tình, thêm kính trọng và ngưỡng mộ cha mình.

“Trong bữa cơm, mẹ tôi hỏi bố: ‘Anh sẽ làm gì?’. Bố tôi đáp: ‘Cứ từ từ mà biết!’. Hôm sau về nhà, tôi thấy bố tôi với cái đầu trọc lốc!”

Sau khi từ chức, Giáo sư Vũ Văn Mẫu dự định hành hương sang Ấn Độ nhưng bị cảnh sát chặn lại và đưa về trại Lê Văn Duyệt. Nhờ sự can thiệp của ngoại giao đoàn, đặc biệt là trưởng Ngoại giao đoàn ở Vatican, cả gia đình ông đã được an toàn rời đi.

Tinh thần dân tộc của Giáo sư Vũ Văn Mẫu còn thể hiện qua việc ông luôn bảo vệ chủ quyền quốc gia. TS Dũng cho biết, từ năm 10 tuổi ông đã được cha dạy về Hoàng Sa, Trường Sa. Năm 1971, với tư cách Thượng nghị sĩ, Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã ký công báo khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

Năm 1965-1966, khi chính quyền Thiệu – Kỳ cho quân Mỹ vào và ném bom miền Bắc, ông lại từ chức Đại sứ tại London lần thứ hai để phản đối. Trở về Sài Gòn, ông hoạt động độc lập, đắc cử Thượng nghị sĩ năm 1970 và tham gia thành lập Đại học Vạn Hạnh.

Ngày 30/4/1975 và những năm tháng sau đó

TS Vũ Hoàng Dũng biết tin cha mình trở thành Thủ tướng cuối cùng của chính quyền Sài Gòn vào ngày 28/4/1975 qua báo chí khi đang ở Anh. Ông thừa nhận đã rất lo lắng cho sự an nguy của cha mình trong bối cảnh chiến tranh.

Sau này, ông mới được nghe lại đoạn băng ghi âm tại Đài Phát thanh Sài Gòn trưa 30/4, trong đó cha ông kêu gọi:

“Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường.”

Sau năm 1975, Giáo sư Vũ Văn Mẫu vẫn ở lại Việt Nam. Đến khoảng năm 1988, nhờ sự tạo điều kiện của ông Võ Văn Kiệt, ông được phép đi lại giữa Pháp và Việt Nam theo chế độ 6 tháng ở Pháp, 6 tháng ở Việt Nam trong suốt 10 năm cho đến khi qua đời. Lần đầu tiên TS Dũng gặp lại cha sau năm 1975 là vào mùa hè năm 1988 tại sân bay Charles de Gaulle, Paris. Đó là một cuộc đoàn tụ đầy xúc động và cũng là lần đầu tiên Giáo sư Vũ Văn Mẫu được gặp mặt các cháu nội, ngoại của mình.

Trở về cội nguồn và niềm tin vào tương lai đất nước

Mãi đến năm 2005, TS Vũ Hoàng Dũng mới có chuyến trở về Việt Nam đầu tiên sau nhiều năm xa cách. Chuyến đi được thôi thúc bởi câu hỏi của người con trai cả sau khi anh tự mình đến Sài Gòn vào năm 2004: “Ba dạy chúng con lịch sử Việt Nam, ba dạy con nói tiếng Việt, tại sao ba không về Việt Nam?”.

Từ đó, gia đình ông đã nhiều lần về thăm quê hương. Ông tự hào khoe rằng các con và cháu của ông, dù mẹ là người Pháp, đều nói được tiếng Việt và am hiểu lịch sử dân tộc. Ông vẫn thường xuyên kiểm tra kiến thức của cháu mình về Thánh Gióng, Ngô Quyền qua các cuộc gọi video.

Khi được hỏi về cảm nhận sau 50 năm đất nước thống nhất, TS Vũ Hoàng Dũng không giấu nổi niềm tự hào.

“Tôi là Việt kiều và không phải đảng viên, nhưng tôi nghĩ Đảng Cộng sản đã lãnh đạo đất nước phát triển như ngày nay và đất nước mình có tầm vóc, có tầm nhìn rất xa. Tôi tự hào và tin tưởng!”

Ông thường khuyên các bạn trẻ, sinh viên Việt Nam rằng họ có ưu thế rất lớn và nên sống, làm việc trong sạch để tiếp tục dẫn dắt đất nước phát triển hùng cường.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *